“Chín năm làm một Điện Biên, nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”

Thứ Tư, 07/05/2025 06:51 GMT+7

Google News

Cách đây 71 năm, ngày 7/5/1954, trải qua "năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt/ Máu trộn bùn non/ Gan không núng/ Chí không mòn…", với "đôi chân đất", tinh thần thép và ý chí chiến đấu quật cường của quân và dân ta, Chiến dịch Điện Biên Phủ đã giành thắng lợi vang dội, đánh bại nỗ lực cuối cùng của thực dân Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. 

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ không chỉ có ý nghĩa đối với cách mạng Việt Nam, mà còn trở thành bản anh hùng ca bất hủ thôi thúc các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới.

Quyết chiến, quyết thắng

Sau 8 năm thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân, "kháng chiến, kiến quốc", quân và dân ta đã lập nên nhiều chiến công to lớn trên các chiến trường, đẩy thực dân Pháp ngày càng lún sâu vào thế bị động. Với tham vọng xoay chuyển tình thế, tháng 7/1953 thực dân Pháp thực hiện Kế hoạch Nava, hòng tập trung binh lực, giành thắng lợi trong vòng 18 tháng. Đây là nỗ lực tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh của Pháp được Mỹ giúp sức. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, quân và dân ta đã phát huy quyền chủ động, tiến hành cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, đẩy địch càng lún sâu vào thế bị động, phải tập trung quân lên Điện Biên Phủ để thực hiện cuộc giao chiến chiến lược ngoài kế hoạch.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình chiến trường, thế và lực của ta, ngày 6/12/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Bác Hồ kính yêu đã chỉ thị: "Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho bằng được". Điện Biên Phủ đã trở thành "điểm quyết chiến chiến lược" giữa ta và địch, trong đó Trung ương Đảng đã hạ quyết tâm: "Tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ để tạo nên một bước ngoặt mới trong chiến tranh".

“Chín năm làm một Điện Biên, nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng” - Ảnh 1.

Cuối năm 1953, tại Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, với quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của Pháp tại Điện Biên Phủ. Ảnh: Tư liệu TTXVN

17 giờ ngày 13/3/1954, quân ta tiến công cụm cứ điểm Him Lam, nằm ở phía Bắc khu trung tâm Mường Thanh, mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là cụm cứ điểm mạnh, được bố phòng kiên cố, đặc biệt là chúng được thông tin về thời điểm bị tiến công nên đã có sự chủ động đối phó, nhưng vẫn bị đánh bại.

Tiếp theo cụm cứ điểm Him Lam, đêm 15/3, quân ta tổ chức tiến công cụm cứ điểm đồi Độc Lập. Đây là cứ điểm do 4 đại đội đóng giữ, có hai tuyến phòng ngự hoàn chỉnh, có công sự vững chắc,quân địch chống trả quyết liệt, nhưng với lực lượng áp đảo, với cách đánh phù hợp và quyết tâm cao, sau hơn 3 giờ tiến công, bộ đội ta đã làm chủ hoàn toàn cụm cứ điểm đồi Độc Lập, bắt sống nhiều tù binh.

Đợt 2 từ ngày 30/3 đến 30/4, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía Đông phân khu trung tâm thắt chặt vòng vây, chia cắt và liên tục tiến công, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho tập đoàn cứ điểm. Địch hết sức ngoan cố, muốn kéo dài thời gian.

17 giờ chiều ngày 1/5, đợt tiến công thứ 3 của quân ta bắt đầu. Đến 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954, ta chiếm sở chỉ huy của địch, tướng Đờ Cát cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Lá cờ "quyết chiến, quyết thắng" của ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch.

“Chín năm làm một Điện Biên, nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng” - Ảnh 2.

Các vị trí của địch trên đồi Him Lam bị trúng đạn pháo của ta đang bốc cháy, các vị trí trên đồi này đã bị tiêu diệt ngay trong ngày 13/3, ngày mở đầu chiến dịch. Trận mở đầu chiến dịch thắng lợi giòn giã. Thắng lợi đó có vai trò quan trọng của hỏa lực pháo binh. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Trải qua 56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, quân và dân ta đã giành thắng lợi vang dội, giáng đòn quyết định, đánh bại nỗ lực chiến tranh cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là một sự kiện trọng đại, không chỉ có ý nghĩa đối với Cách mạng Việt Nam, mà còn trở thành bản anh hùng ca bất hủ thôi thúc các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Đó là thắng lợi vĩ đại của Nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới".

Âm vang Điện Biên Phủ còn mãi

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", "được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng, hay một Đống Đa của thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc". (1)

Chiến thắng Điện Biên Phủ là đỉnh cao thắng lợi của cuộc kháng chiến "toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính", là thắng lợi của tinh thần "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", là sự kết tinh sức mạnh Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh; buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ (ngày 21/7/1954) về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam; tạo cơ sở, tiền đề cho việc giải phóng, xây dựng miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội và nền tảng vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

“Chín năm làm một Điện Biên, nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng” - Ảnh 3.

Ngày 7/5/1954, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, toàn bộ tập đòan cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ đã bị quân ta tiêu diệt, lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" đang phấp phới bay trên nóc hầm Tướng De Castries. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Chiến thắng Điện Biên Phủ là sự kết tinh của nhiều nhân tố, mà quan trọng nhất là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự lãnh đạo đó không những thể hiện ở đường lối chính trị và đường lối quân sự đúng đắn, ở sự chỉ đạo chiến lược và chiến thuật tài tình trên chiến trường mà điều quan trọng còn thể hiện ở vai trò tiên phong hy sinh, gương mẫu của những người đảng viên. Trước những thử thách ác liệt của trận Điện Biên Phủ, biết bao đảng viên ưu tú đã một lòng vì nước, vì dân, nêu cao tinh thần gương mẫu trong chiến đấu, không quản gian khổ, sẵn sàng xả thân để giành chiến thắng.

Chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại còn có nguồn gốc từ truyền thống quý báu của dân tộc, đã được hun đúc qua mấy nghìn năm lịch sử. Đó là truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần độc lập, tự chủ, ý chí quật cường, bất khuất, thông minh, sáng tạo, đoàn kết nhân ái của toàn thể nhân dân.

Đặc biệt hơn nữa, sức mạnh làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chính là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, từ quân đến dân, từ hậu phương đến tiền tuyến. Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, sử gia người Pháp Alain Ruscio đã nhận xét: "Võ Nguyên Giáp đâu phải chỉ có một mình! Ông có nhân dân Việt Nam cùng kề vai, sát cánh...". (2)

Chiến thắng Điện Biên Phủ đồng thời cũng là chiến thắng của tình đoàn kết chiến đấu bền chặt, thủy chung, son sắt giữa quân đội, nhân dân 3 nước Đông Dương và sự đoàn kết, giúp đỡ, ủng hộ của các nước anh em và bạn bè quốc tế.

71 năm đã trôi qua, song âm vang Chiến thắng Điện Biên Phủ còn mãi. Trong Diễn văn phát biểu tại Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã khẳng định: "Chúng ta tin tưởng và tự hào rằng, những trang sử hào hùng, vẻ vang của dân tộc ta với tinh thần Điện Biên Phủ bất diệt, những khó khăn được tháo gỡ, những thách thức sẽ vượt qua để viết tiếp những bản hùng ca chiến thắng với tất cả sự quyết tâm, sự kiên trì, bền bỉ, nhiệt huyết, tinh thần tự hào dân tộc, tình yêu quê hương, đất nước của các thế hệ hôm nay và mai sau".

(1): Lê Duẩn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1970, tr.50.

(2): G.Boudarel, Võ Nguyên Giáp, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2012, tr.12.

Phương Anh/TTXVN

Đọc thêm
  • Xem thêm  ›